Thứ Tư, 11 tháng 2, 2015

Huyền thoại An Nhơn

Cữa Đông thành Bình Định hiện nay

Những làng quê trải dọc dài theo ba nhánh sông Côn nhuần nhụy tươi mát phù sa, theo tuyến các trục lộ để được đắm mình trong dòng tàu xe ra Bắc vào Nam. Ta sẽ bắt gặp nơi đây, suốt một dải dằng dặc khúc ruột miền Trung nắng gió, nơi hội điểm Ngã Tư An Nhơn. Nơi một trái tim đầy nhịp sống cứ thôi thúc, trẻ trung và thăng hoa. Nơi mà thế đất, núi biếc, sông xanh ẩn tiềm nhiều lợi thế mà thiên nhiên đã trao gởi.
       Ai có dịp dừng chân lại mảnh đất An Nhơn hoặc chỉ phút giây thoáng qua cũng để lại trong lòng mình những ấn tượng sâu đậm. Người ta thường nhắc đến mảnh đất này, mảnh đất của đất nước Chăm-pa thuở xưa, của thành Đồ Bàn, sau đó là thành Hoàng Đế, nơi Tây Sơn dấy nghiệp.
        Đây rồi, dấu vết của thành Đồ Bàn xưa thỉnh thoảng hiện lên bằng những đoạn đường đá ong phiến lớn lấp ló trong đất cát và cây cỏ. Trên một quả đồi thấp còn hai cây cột bằng đá, trông xa như hai thân cây bị chém trụi, dấu vết của cổng thành ngày xưa. Ánh nắng tắt dần trên tháp Cánh Tiên sừng sững ở một quả đồi khác. Cách đó không xa là một ngôi tháp nhỏ hơn mà người ta thường gọi là Tháp Vàng. Tháp Cánh Tiên là một công trình kiến trúc độc đáo với những hàng gạch như xếp vào nhau mà gắn chặt thành một khối với những đường nét tuyệt mỹ. Có lẽ đây là ngôi tháp cổ nhất của dân tộc Chàm. Tháp đứng trơ trơ với thời gian cùng mưa nắng hàng mấy thế kỷ. Trong buổi chiều im lặng, xa xa ngọn khói lam chiều bốc lên, gió xào xạc trên ngọn tháp, như có cảm giác kinh thành vương quốc Chăm-pa hiện ra trước mắt, trong ánh đuốc lung linh, những vũ nữ bước ra khỏi tháp mỉm cười múa hát. Có đến nơi đây mới thật sự rung cảm với những bài thơ thương cảm của Chế Lan Viên viết về tháp Chàm mà có thời thi sĩ từng ăn học ở mảnh đất này. Kinh thành của vương quốc Chăm-pa cổ tồn tại năm thế kỷ sẽ mãi còn là nguồn cảm hứng của nghệ thuật, thi ca. 

            Nhưng cũng từ trên cái nền đất này, một cảm xúc hào hùng sẽ tràn ngập trong lòng chúng ta khi biết rằng nơi đây nhà Tây Sơn đã dựng thành Hoàng Đế làm kinh đô của mình. Từ trên một độ cao nhìn bao quát mới thấy hết vị trí chiến lược của thành. Phía sau lưng nó là dãy Trường Sơn cao ngất. Hai bên là hai dãy núi chạy thoai thoải ra biển Đông như hai cánh tay vạm vỡ che chở. Trước mặt thành nhìn ra biển là núi Mò O thuộc xã Nhơn Thành, trên đỉnh còn dấu vết đồn tiền tiêu của quân Tây Sơn.
Từ đó có thể nhìn bao quát ra biển và bốn hướng, mỗi khi có động lại có những ngọn khói bốc lên cao báo hiệu. Kinh thành ấy ngày xưa ngoài cái vẻ oai phong của các anh hùng áo vải Tây Sơn, chắc chắn cuộc sống của kinh thành cũng sầm uất lắm. Âm vang của sự sầm uất ấy vẫn còn vang vọng đến mãi hôm nay.
       Mỗi một làng, một xã đến bây giờ vẫn còn giữ được nghề truyền thống, lụa vải An Ngãi, Phương Danh, Huỳnh Kim; rèn đúc Nam Tân; đồ gốm Nhơn Hậu; đúc đồng Bằng Châu; bún “Song Thằng” An Thái, hương rượu xứ Bầu Đá, nón Gò Găng… Tiếng búa rèn vang lên chan chát cả một vùng khiến cho ai nấy đều tưởng tượng ra những lò rèn binh khí ngày xưa, rồi cô gái thướt tha gánh lụa, gánh đồ gốm vào kinh thành để bán… Mỗi nơi một nghề khiến chúng ta lại nhớ đến ba mươi sáu phố phường của kinh thành Thăng Long nào Hàng Mã, Hàng Thùng, Hàng Lược, Hàng Cân, Hàng Chiếu, Hàng Hòm…
        An Nhơn có quyền tự hào là kinh thành của hai triều đại, kinh thành gắn liền với sự phát triển và văn minh đi trước. Thành Bình Định thời Nguyễn sau này lại có trường thi Hương. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ tới dân trí và cung cách sinh hoạt của con người nơi đây. Tinh thần hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Dù bị chế độ thực dân và phong kiến kìm hãm, An Nhơn vẫn có nhiều người học giỏi đỗ đạt cao. Về Nho học có nhiều người đỗ cử nhân và tiến sĩ như Lâm Duy Nghĩa, Nguyễn Đôn Phục, Cao Văn Huy, Hồ Sĩ Tạo…Có những người làm quan song lại tham gia phong trào chống Pháp và bọn tay sai như cử nhân Nguyễn Trọng Trì (xã Nhơn Hậu), từng làm quan ở Huế và đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng (1885-1887), tiến sĩ Hồ Sĩ Tạo (xã Nhơn Hưng) trở về quê tham gia phong trào chống thuế… An Nhơn cùng với Tây Sơn, Tuy Phước là cái nôi của dòng võ Bình Định, võ Tây Sơn. Phải chăng dưới lá cờ đại nghĩa của Tây Sơn, nhân dân An Nhơn đã thấm nhuần một tinh thần thượng võ. Đến nay ở xã Nhơn Phúc vẫn còn di tích của ngôi nhà thầy giáo Hiến dạy Nguyễn Huệ. Người ta có cảm tưởng con người An Nhơn luôn luôn văn võ song toàn. Ngay đến cả những cô gái hiền dịu cũng có võ thuật để sẵn sàng giúp   nước. Đã có câu ca:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền
      Cái chất văn võ song toàn ấy sẽ là cái nền để hun đúc nên những tính
cách độc đáo của con người An Nhơn sau này.
         Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, An Nhơn luôn là mảnh đất kiên cường. Đường qua xã Nhơn Mỹ phải qua một quả đồi đất đỏ rộng mênh mông, trước đây là căn cứ quân sự của Mỹ, không một người dân nào được bước vào đây. Đối diện với quả đồi đó là sân bay quân sự Phù Cát với những kho tàng lớn và những hầm chứa máy bay khum khum bằng bê-tông cốt sắt. Giặc đốt làng cào dân đi nơi khác nhiều lần nhưng dân lại trở về bám đất. Cuộc đấu tranh giành giật ác liệt bao nhiêu năm trời máu xương, giặc bất lực không thể tách người dân ra khỏi mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ. Nhơn Mỹ xứng đáng với truyền thống vẻ vang từ thời chống Pháp với núi Chùa là nơi thành lập chi bộ Hồng Lĩnh, đốm lửa đỏ đầu tiên của Đảng nhen trên đất An Nhơn vào năm 1936. Thời Mĩ-ngụy, địch đóng quân ngay trên nền ngôi chùa này và chính chúng đã phải nếm những đòn đau. Người dân Nhơn Mỹ còn nhớ mãi chỉ có số ít du kích cùng nhân dân với vũ khí thô sơ khua mõ hò reo đã đánh bại hàng trăm lính bảo an chốt trên núi Chùa. Núi Chùa đã trở thành biểu tượng của niềm tin, từ đó ánh sáng của Đảng tỏa khắp An Nhơn. Đi dọc theo quốc lộ 19, con đường chiến lược của Mĩ-ngụy nối Tây Nguyên với cảng Qui Nhơn, từ xa chúng tôi đã nhìn thấy núi Hòn Tượng (xã Nhơn Tân). Thiên nhiên thật là kì thú đã đặt ở đây một hòn núi giống hệt con voi. Đúng là con voi kia rồi! Cái đầu nó nhô lên với mỏm núi nhấp nhô với những cây bạc lá, hai mỏm núi hai bên như hai cái tai, còn sườn núi thoai thoải thành gờ lại giống hệt cái vòi voi. Càng đến gần, hình con voi càng nổi rõ. Đối diện với Hòn Tượng là quả núi mà lữ đoàn Mãnh Hổ, Nam Triều Tiên chiếm giữ. Địch và ta chỉ cách nhau trong tầm súng. Giữ vị trí chiến lược, địch kiểm soát đường 19 rất ngặt nghèo. Nhưng Hoàn Tượng rồi sau đó là Hòn Giang (xã Nhơn Thọ) kia vẫn là căn cứ cách mạng. Những đảng viên cộng sản vẫn len lỏi hoạt động trong những hang đá và những con đường hiểm trở. Thật là ngẫu nhiên và cũng đầy ý nghĩa khi chợt nghĩ quân Tây Sơn ngày xưa dùng voi chiến xung trận, còn bây giờ con voi núi khổng lồ này đang che chở cho các chiến sĩ cách mạng tiến công quân thù. Sau núi Hòn Chùa, Hòn Tượng, Hòn Giang lại trở thành biểu tượng của chiến thắng, nơi đó những chiến sĩ cách mạng bám từng tất đất trong những ngày đen tối nhất.
       Dòng sông Côn bắt nguồn từ chân dãy Trường Sơn đổ vào An Nhơn
 thành năm nhánh như một bàn tay xòe ra năm ngón tạo thành một vẻ đẹp nên thơ. Chiến tranh đau thương, con sông cũng như rỉ máu và nước mắt. Còn hôm nay đây, nó như đang cất vang lên tiếng hát, uốn lượn mềm mại như dải lụa quấn quít với màu xanh của lúa, màu xanh của xóm làng, màu xanh của sự sống. Nhân dân An Nhơn hết sức phấn khởi và tin yêu vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, tin vào sức mạnh của
chính mình. Và, nhân dân An Nhơn lại dâng lên một khí thế mới hừng hực như những con sóng lớn. An Nhơn dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bật dậy được sức mạnh tiềm tàng của nhân dân chiến thắng đói nghèo, hoang tàn đổ nát và trở thành một bức tranh đẹp. Con đường đi lên ấy đâu có phải dễ dàng, bằng phẳng, phải trải qua bao thử thách, khó khăn, vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm, An Nhơn không bao giờ giậm chân tại chỗ mà luôn đi lên kiên trì vững chắc, tiếp thu nhanh cái mới với bộ óc thông minh – vầng trán kinh thành.  
      An Nhơn từ ngàn xưa đã luôn quyết liệt và con người phải bền bỉ đấu tranh để tồn tại. Cứ xem việc đặt tên các xã: Nhơn Hậu, Nhơn Hạnh, Nhơn An, Nhơn Mỹ, Nhơn Tân, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ, Nhơn Hòa, Nhơn Khánh, Nhơn Hưng, Nhơn Thành, Nhơn Phong, Nhơn Phúc cũng đủ thấy sự khát khao của con người nơi đây vươn tới sự thái bình, thịnh vượng, vươn tới những phẩm chất đẹp đẽ nhất của con người. Con người An Nhơn dũng cảm thẳng thắng, bộc trực song cũng rất đôn hậu đầy lòng nhân ái. Khi tiếp xúc với những cô gái giỏi võ, kiên cường trong chiến đấu, chúng ta nhận ra một điều rất thú vị, những cô gái đó lại rất dịu dàng, duyên dáng, tình cảm đằm thắm biết bao nhiêu! Như thế đấy, mảnh đất An Nhơn đầy sự tích đã tạo ra những con người có tính cách đa dạng, phong phú và nổi bật lên hơn hết là chữ Nhân. Phải chăng chữ Nhơn là bắt đầu từ chữ Nhân mà ra đó. 
         An Nhơn có truyền thống thức hàng mấy trăm năm, mỗi cái mốc thời gian là một trang sử vẻ vang. Con người An Nhơn giống như một chàng dũng sĩ tuấn tú có sức địch muôn người nhưng lại có vầng trán thông minh, tài trí, thừa hưởng truyền thống của con người kinh thành xưa. Trong từng công việc cụ thể hàng ngày, trong từng con người An Nhơn, hình ảnh chàng dũng sĩ có vầng trán thông minh, vầng trán kinh thành cứ hiện lên trước mắt rõ mồn một. Trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa hôm nay, chúng ta tin chắc rằng những vầng tráng kinh thành đó lại làm nên sự nghiệp vẻ vang./.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét