![]() |
Cữa Đông thành Bình Định hiện nay |
Những làng quê trải dọc dài
theo ba nhánh sông Côn nhuần nhụy tươi mát phù sa, theo tuyến các trục lộ để
được đắm mình trong dòng tàu xe ra Bắc vào Nam . Ta sẽ bắt gặp nơi đây, suốt
một dải dằng dặc khúc ruột miền Trung nắng gió, nơi hội điểm Ngã Tư An Nhơn.
Nơi một trái tim đầy nhịp sống cứ thôi thúc, trẻ trung và thăng hoa. Nơi mà thế
đất, núi biếc, sông xanh ẩn tiềm nhiều lợi thế mà thiên nhiên đã trao gởi.
Ai có dịp dừng chân lại mảnh đất An Nhơn
hoặc chỉ phút giây thoáng qua cũng để lại trong lòng mình những ấn tượng sâu
đậm. Người ta thường nhắc đến mảnh đất này, mảnh đất của đất nước Chăm-pa thuở
xưa, của thành Đồ Bàn, sau đó là thành Hoàng Đế, nơi Tây Sơn dấy nghiệp.
Đây rồi, dấu vết của thành Đồ Bàn xưa
thỉnh thoảng hiện lên bằng những đoạn đường đá ong phiến lớn lấp ló trong đất
cát và cây cỏ. Trên một quả đồi thấp còn hai cây cột bằng đá, trông xa như hai
thân cây bị chém trụi, dấu vết của cổng thành ngày xưa. Ánh nắng tắt dần trên
tháp Cánh Tiên sừng sững ở một quả đồi khác. Cách đó không xa là một ngôi tháp
nhỏ hơn mà người ta thường gọi là Tháp Vàng. Tháp Cánh Tiên là một công trình
kiến trúc độc đáo với những hàng gạch như xếp vào nhau mà gắn chặt thành một
khối với những đường nét tuyệt mỹ. Có lẽ đây là ngôi tháp cổ nhất của dân tộc
Chàm. Tháp đứng trơ trơ với thời gian cùng mưa nắng hàng mấy thế kỷ. Trong buổi
chiều im lặng, xa xa ngọn khói lam chiều bốc lên, gió xào xạc trên ngọn tháp,
như có cảm giác kinh thành vương quốc Chăm-pa hiện ra trước mắt, trong ánh đuốc
lung linh, những vũ nữ bước ra khỏi tháp mỉm cười múa hát. Có đến nơi đây mới
thật sự rung cảm với những bài thơ thương cảm của Chế Lan Viên viết về tháp
Chàm mà có thời thi sĩ từng ăn học ở mảnh đất này. Kinh thành của vương quốc
Chăm-pa cổ tồn tại năm thế kỷ sẽ mãi còn là nguồn cảm hứng của nghệ thuật, thi
ca.
Nhưng cũng từ trên cái nền đất này,
một cảm xúc hào hùng sẽ tràn ngập trong lòng chúng ta khi biết rằng nơi đây nhà
Tây Sơn đã dựng thành Hoàng Đế làm kinh đô của mình. Từ trên một độ cao nhìn
bao quát mới thấy hết vị trí chiến lược của thành. Phía sau lưng nó là dãy
Trường Sơn cao ngất. Hai bên là hai dãy núi chạy thoai thoải ra biển Đông như
hai cánh tay vạm vỡ che chở. Trước mặt thành nhìn ra biển là núi Mò O thuộc xã
Nhơn Thành, trên đỉnh còn dấu vết đồn tiền tiêu của quân Tây Sơn.
Từ đó có thể nhìn bao quát
ra biển và bốn hướng, mỗi khi có động lại có những ngọn khói bốc lên cao báo
hiệu. Kinh thành ấy ngày xưa ngoài cái vẻ oai phong của các anh hùng áo vải Tây
Sơn, chắc chắn cuộc sống của kinh thành cũng sầm uất lắm. Âm vang của sự sầm
uất ấy vẫn còn vang vọng đến mãi hôm nay.
Mỗi một làng, một xã đến bây giờ vẫn còn
giữ được nghề truyền thống, lụa vải An Ngãi, Phương Danh, Huỳnh Kim; rèn đúc
Nam Tân; đồ gốm Nhơn Hậu; đúc đồng Bằng Châu; bún “Song Thằng” An Thái, hương
rượu xứ Bầu Đá, nón Gò Găng… Tiếng búa rèn vang lên chan chát cả một vùng khiến
cho ai nấy đều tưởng tượng ra những lò rèn binh khí ngày xưa, rồi cô gái thướt
tha gánh lụa, gánh đồ gốm vào kinh thành để bán… Mỗi nơi một nghề khiến chúng
ta lại nhớ đến ba mươi sáu phố phường của kinh thành Thăng Long nào Hàng Mã,
Hàng Thùng, Hàng Lược, Hàng Cân, Hàng Chiếu, Hàng Hòm…
An Nhơn có quyền tự hào là kinh thành
của hai triều đại, kinh thành gắn liền với sự phát triển và văn minh đi trước.
Thành Bình Định thời Nguyễn sau này lại có trường thi Hương. Điều đó có ảnh
hưởng không nhỏ tới dân trí và cung cách sinh hoạt của con người nơi đây. Tinh
thần hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp. Dù bị chế độ thực dân và
phong kiến kìm hãm, An Nhơn vẫn có nhiều người học giỏi đỗ đạt cao. Về Nho học
có nhiều người đỗ cử nhân và tiến sĩ như Lâm Duy Nghĩa, Nguyễn Đôn Phục, Cao
Văn Huy, Hồ Sĩ Tạo…Có những người làm quan song lại tham gia phong trào chống
Pháp và bọn tay sai như cử nhân Nguyễn Trọng Trì (xã Nhơn Hậu), từng làm quan ở
Huế và đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng (1885-1887), tiến sĩ Hồ
Sĩ Tạo (xã Nhơn Hưng) trở về quê tham gia phong trào chống thuế… An Nhơn cùng
với Tây Sơn, Tuy Phước là cái nôi của dòng võ Bình Định, võ Tây Sơn. Phải chăng
dưới lá cờ đại nghĩa của Tây Sơn, nhân dân An Nhơn đã thấm nhuần một tinh thần
thượng võ. Đến nay ở xã Nhơn Phúc vẫn còn di tích của ngôi nhà thầy giáo Hiến
dạy Nguyễn Huệ. Người ta có cảm tưởng con người An Nhơn luôn luôn văn võ song
toàn. Ngay đến cả những cô gái hiền dịu cũng có võ thuật để sẵn sàng giúp nước. Đã có câu ca:
Ai về Bình
Định mà coi
Con gái Bình
Định bỏ roi đi quyền
Cái chất văn võ song toàn ấy sẽ là cái
nền để hun đúc nên những tính
cách độc đáo của con người An Nhơn sau này.
Trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, An Nhơn luôn là mảnh đất kiên
cường. Đường qua xã Nhơn Mỹ phải qua một quả đồi đất đỏ rộng mênh mông, trước
đây là căn cứ quân sự của Mỹ, không một người dân nào được bước vào đây. Đối
diện với quả đồi đó là sân bay quân sự Phù Cát với những kho tàng lớn và những
hầm chứa máy bay khum khum bằng bê-tông cốt sắt. Giặc đốt làng cào dân đi nơi
khác nhiều lần nhưng dân lại trở về bám đất. Cuộc đấu tranh giành giật ác liệt
bao nhiêu năm trời máu xương, giặc bất lực không thể tách người dân ra khỏi
mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ. Nhơn Mỹ xứng đáng với truyền thống vẻ vang từ
thời chống Pháp với núi Chùa là nơi thành lập chi bộ Hồng Lĩnh, đốm lửa đỏ đầu
tiên của Đảng nhen trên đất An Nhơn vào năm 1936. Thời Mĩ-ngụy, địch đóng quân
ngay trên nền ngôi chùa này và chính chúng đã phải nếm những đòn đau. Người dân
Nhơn Mỹ còn nhớ mãi chỉ có số ít du kích cùng nhân dân với vũ khí thô sơ khua
mõ hò reo đã đánh bại hàng trăm lính bảo an chốt trên núi Chùa. Núi Chùa đã trở
thành biểu tượng của niềm tin, từ đó ánh sáng của Đảng tỏa khắp An Nhơn. Đi dọc
theo quốc lộ 19, con đường chiến lược của Mĩ-ngụy nối Tây Nguyên với cảng Qui
Nhơn, từ xa chúng tôi đã nhìn thấy núi Hòn Tượng (xã Nhơn Tân). Thiên nhiên
thật là kì thú đã đặt ở đây một hòn núi giống hệt con voi. Đúng là con voi kia
rồi! Cái đầu nó nhô lên với mỏm núi nhấp nhô với những cây bạc lá, hai mỏm núi
hai bên như hai cái tai, còn sườn núi thoai thoải thành gờ lại giống hệt cái
vòi voi. Càng đến gần, hình con voi càng nổi rõ. Đối diện với Hòn Tượng là quả
núi mà lữ đoàn Mãnh Hổ , Nam Triều Tiên chiếm giữ. Địch và
ta chỉ cách nhau trong tầm súng. Giữ vị trí chiến lược, địch kiểm soát đường 19
rất ngặt nghèo. Nhưng Hoàn Tượng rồi sau đó là Hòn Giang (xã Nhơn Thọ) kia vẫn
là căn cứ cách mạng. Những đảng viên cộng sản vẫn len lỏi hoạt động trong những
hang đá và những con đường hiểm trở. Thật là ngẫu nhiên và cũng đầy ý nghĩa khi
chợt nghĩ quân Tây Sơn ngày xưa dùng voi chiến xung trận, còn bây giờ con voi
núi khổng lồ này đang che chở cho các chiến sĩ cách mạng tiến công quân thù.
Sau núi Hòn Chùa, Hòn Tượng, Hòn Giang lại trở thành biểu tượng của chiến thắng,
nơi đó những chiến sĩ cách mạng bám từng tất đất trong những ngày đen tối nhất.
Dòng
sông Côn bắt nguồn từ chân dãy Trường Sơn đổ vào An Nhơn
thành năm
nhánh như một bàn tay xòe ra năm ngón tạo thành một vẻ đẹp nên thơ. Chiến tranh
đau thương, con sông cũng như rỉ máu và nước mắt. Còn hôm nay đây, nó như đang
cất vang lên tiếng hát, uốn lượn mềm mại như dải lụa quấn quít với màu xanh của
lúa, màu xanh của xóm làng, màu xanh của sự sống. Nhân dân An Nhơn hết sức phấn
khởi và tin yêu vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, tin vào sức mạnh của
chính mình. Và, nhân dân An Nhơn lại dâng lên một
khí thế mới hừng hực như những con sóng lớn. An Nhơn dưới sự lãnh đạo của Đảng
đã bật dậy được sức mạnh tiềm tàng của nhân dân chiến thắng đói nghèo, hoang
tàn đổ nát và trở thành một bức tranh đẹp. Con đường đi lên ấy đâu có phải dễ
dàng, bằng phẳng, phải trải qua bao thử thách, khó khăn, vừa làm, vừa học, vừa
rút kinh nghiệm, An Nhơn không bao giờ giậm chân tại chỗ mà luôn đi lên kiên
trì vững chắc, tiếp thu nhanh cái mới với bộ óc thông minh – vầng trán kinh
thành.
An Nhơn từ ngàn xưa đã luôn quyết liệt và
con người phải bền bỉ đấu tranh để tồn tại. Cứ xem việc đặt tên các xã: Nhơn
Hậu, Nhơn Hạnh, Nhơn An, Nhơn Mỹ, Nhơn Tân, Nhơn Lộc, Nhơn Thọ, Nhơn Hòa, Nhơn
Khánh, Nhơn Hưng, Nhơn Thành, Nhơn Phong, Nhơn Phúc cũng đủ thấy sự khát khao
của con người nơi đây vươn tới sự thái bình, thịnh vượng, vươn tới những phẩm
chất đẹp đẽ nhất của con người. Con người An Nhơn dũng cảm thẳng thắng, bộc
trực song cũng rất đôn hậu đầy lòng nhân ái. Khi tiếp xúc với những cô gái giỏi
võ, kiên cường trong chiến đấu, chúng ta nhận ra một điều rất thú vị, những cô
gái đó lại rất dịu dàng, duyên dáng, tình cảm đằm thắm biết bao nhiêu! Như thế
đấy, mảnh đất An Nhơn đầy sự tích đã tạo ra những con người có tính cách đa
dạng, phong phú và nổi bật lên hơn hết là chữ Nhân. Phải chăng chữ Nhơn là bắt
đầu từ chữ Nhân mà ra đó.
An Nhơn có truyền thống thức hàng mấy
trăm năm, mỗi cái mốc thời gian là một trang sử vẻ vang. Con người An Nhơn
giống như một chàng dũng sĩ tuấn tú có sức địch muôn người nhưng lại có vầng
trán thông minh, tài trí, thừa hưởng truyền thống của con người kinh thành xưa.
Trong từng công việc cụ thể hàng ngày, trong từng con người An Nhơn, hình ảnh chàng
dũng sĩ có vầng trán thông minh, vầng
trán kinh thành cứ hiện lên trước mắt rõ mồn một. Trong công cuộc công
nghiệp hóa - hiện đại hóa hôm nay, chúng ta tin chắc rằng những vầng tráng kinh thành đó lại làm nên sự
nghiệp vẻ vang./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét